Bài viết
Điều dưỡng với nghề chăm sóc người bệnh
[ Cập nhật vào ngày (06/05/2016) ] - [ Số lần xem: 386 ]

Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và mỗi gia đình. Người càng yếu, người trở về già hiểu rõ hơn giá trị của sức khoẻ


Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và mỗi gia đình. Người càng yếu, người trở về già hiểu rõ hơn giá trị của sức khoẻ. Đầu tư cho sức khoẻ là đầu tư cho sự phát triển giống nòi, xã hội, đất nước và mang lại chất lượng cuộc sống cho mỗi các nhân, gia đình. Tuổi thọ của người Việt Nam ngày càng được cải thiện đồng nghĩa với tỷ lệ người cao tuổi ngày một tăng, dẫn đến nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao và vai trò của người cán bộ y tế càng nặng nề.

 Nói đến chăm sóc sức khoẻ, chúng ta không thể không nhắc tới người điều dưỡng và nghề điều dưỡng, họ là lực lượng chính mang dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tới cộng đồng, tới vùng khó khăn, vùng dân tộc it người, vùng xa xôi hẻo lánh. Có thể nói, người đầu tiên đón em bé chào đời là người hộ sinh. Người nâng giấc, chăm sóc, an ủi người bệnh lúc đau yếu, những giờ phút cuối đời tại bệnh viện chính là người điều dưỡng. Vì vậy, Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá dịch vụ chăm sóc sức khoẻ do người điều dưỡng-hộ sinh cung cấp là trụ cột của hệ thống y tế.

 Trong suốt thời gian dài, kể từ khi người Pháp du nhập Y học hiện đại vào Việt Nam, cho đến thập kỷ của những năm 1990, Điều dưỡng Việt Nam mới được coi là một nghề, nó được thể hiện qua hệ thống đào tạo chuyên ngành, hệ thống quản lý ngành dọc và sự hình thành phát triển Hội nghề nghiệp.

 Trước năm 1990, người Điều dưỡng có tên gọi Y tá với chức năng phụ thuộc và vai trò phụ giúp, thực hiện y lệnh của Bác sĩ là chính. Họ chỉ được đào tạo ngắn hạn dưới một năm (sơ học) và theo phương pháp cầm tay chỉ việc là chính. Từ năm 1968, người Y tá tại phía Bắc Việt Nam được đào tạo chính quy ở trình độ trung học với thời gian 2,5 năm cho những người đã  tốt nghiệp trung học cơ sở (7/10 năm) và sau đó (1975) là tốt nghiệp trung học phổ thông (10/10). Trong khi đó, tại Phía Nam, người Y tá được đào tạo theo hệ thống y tế của Mỹ theo chương trình Cán sự điều dưỡng (3 năm). Năm 1975, thống nhất hai miền Bắc-Nam, điều dưỡng được đào tạo theo 2 chương trình sơ học (dưới 2 năm) và trung học (2,5 năm). Năm 1985, 1986 với mong muốn người y tá Việt Nam có trình độ như y tá của các nước Châu Âu để họ có thể đảm đương được vai trò chủ động, độc lập hơn trong chăm sóc, đáp ứng được sự phát triển của y học hiện đại và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Bộ Y tế phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo đã thực hiện một chương trình đào tạo thí điểm y tá có trình độ đại học tại chức 4 năm cho những y tá đã tốt nghiệp y tá trung học, có 5 năm kinh nghiệm công tác và vượt qua kỳ thi tuyển đại học tại chức cấp quốc gia. Hai khoá thí điểm y tá cấp cao đầu tiên được thực hiện tại Đại học Y khoa Hà Nội và Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh và 5 năm sau, Bộ Y tế và Bộ Giáo dục đào tạo đã tổng kết, rút kinh nghiệm và quyết định đưa vào đào tạo điều dưỡng chính quy 4 năm từ 1995 tại hai trường trên. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện 4 chương trình đào tạo điều dưỡng: y tá thôn bản (1 năm) điều dưỡng trung học (2 năm), điều dưỡng cao đẳng (3 năm), cử nhân điều dưỡng (4 năm) và thạc sĩ điều dưỡng (2 năm). 

 Về hệ thống tổ chức, nghề Điều dưỡng đã được Nhà nước quan tâm và phát triển ở tất cả các cấp quản lý của ngành y tế. Hiện tại một điều dưỡng đang giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Quản lý khám của bệnh, nơi có một Phòng Điều dưỡng với tất cả các thành viên là điều dưỡng. Các Sở Y tế có Điều dưỡng trưởng Sở Y tế, các bệnh viện có Phòng Điều dưỡng. Các trường y tế có khoa hoặc bộ môn điều dưỡng. Một số bệnh viện, trường y tế có lãnh đạo là điều dưỡng. Như vậy, người điều dưỡng Việt Nam đã được Nhà nước, ngành y tế thừa nhận và họ đang góp phần quan trọng trong việc đề xuất và xây dựng chính sách cho điều dưỡng-hộ sinh.  

 Về Hội nghề nghiệp, Hội Điều dưỡng Việt Nam được thành lập năm 1990, tới nay đã 24 năm, 24 năm qua không phải là dài nhưng là quá trẻ so với nhiều hội y khoa khác trong nước và còn rất trẻ so với các Hội điều dưỡng nước ngoài. Song, lịch sử phát triển ngành nghề điều dưỡng Việt Nam từ năm 1990 đến nay gắn liền với sự phát triển Hội Điều dưỡng Việt Nam. Hội Điều dưỡng Việt Nam với khoảng 61 ngàn hội viên đã và đang đóng vai trò quan trọng trong tư vấn xây dựng chính sách, phản biện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người điều dưỡng Việt Nam. Nếu nói đến ngạch công chức, ngạch lương, chương trình đào tạo điều dưỡng, các quy trình chuyên môn cho điều dưỡng, các danh hiệu thi đua cao quý “Thầy thuốc ưu tú, thầy thuốc nhân dân” cho người điều dưỡng và cán bộ y tế khác…đều có vai trò vận động của Hội Điều dưỡng Việt Nam.

 Về thực hành chăm sóc, có thể nói chương trình đào tạo ảnh hưởng và tác động rất lớn tới thực hành nghề nghiệp. Lâu nay, chương trình đào tạo điều dưỡng được xây dựng dựa trên mô tả công việc và xác định chức năng, nhiệm vụ của người y tá là thực hiện y lệnh, phụ thuộc vào chỉ định của bác sĩ nên công tác chăm sóc của điều dưỡng chưa đáp ứng được cầu cơ bản của người bệnh. Hầu hết công tác chăm sóc cơ bản cho người bệnh được người nhà đảm nhiệm. Để khắc phục tình trạng này, năm 1993, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ra Quyết định 526/QĐ-BYT ban hành chế độ trách nhiệm của y tá trong việc chăm sóc người bệnh tại bệnh viện và công văn số 3722/BYT-ĐTr  hướng dẫn triển khai quyết định trên. Hai văn bản nói trên đã đề cập đến khai niệm “Chăm sóc người bệnh toàn diện” (CSNBTD) và quy định trách nhiệm của y tá là chăm sóc người bệnh cả về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ tập trung vào việc thực hiện y lệnh điều trị.

 Năm 1996, do nhu cầu chất lượng chăm sóc người bệnh và củng cố phát triển hệ thống quản lý điều dưỡng, Thông tư 11/1996/TT-BYT về hướng dẫn tổ chức thực hiện CSNBTD và củng cố hệ thống điều dưỡng trưởng được ra đời. Một năm sau (1997), công tác CSNBTD được thể chế hoá thành Quy chế chăm sóc người bệnh toàn diện (CSNBTD) trong Quy chế bệnh viện. Tại Quy chế này, Bộ Y tế đã đưa ra khái niệm CSNBTD là sự chăm sóc, theo dõi người bệnh của bác sĩ và điều dưỡng trong suốt thời gian nằm viện tại bệnh viện nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nguời bệnh cả về thể chất, tinh thần và xã hội. Quy chế cũng quy định nội dung CSNBTD dựa vào mức độ phụ thuộc của người bệnh tới nhân viên y tế theo phân cấp chăm sóc và giao trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân trong chăm sóc, bao gồm cả bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý, y công, người bệnh và người nhà người bệnh.

 Năm 2003, Chỉ thị 05/2003/BYT-CT của Bộ trưởng Bộ Y tế đã yêu cầu mọi cán  bộ y tế đều có trách nhiệm thực hiện CSNBTD, các bệnh viện phải tăng cường công tác chăm sóc người bệnh toàn diện thông qua 5 hoạt động chính: (1) Kiện toàn mạng lưới điều dưỡng trưởng từ Sở Y tế đến tận khoa-phòng trong bệnh viện, (2) Thành lập Ban chỉ đạo chăm sóc người bệnh toàn diện bao gồm các thành phần liên quan để tăng cường chỉ đạo CSTD, (3) Yêu cầu Giám đốc bệnh viện phải đầu tư cho công tác chăm sóc toàn diện qua đào tạo, bổ sung nguồn lực và phát động phong trào thi đua, (4) Giao trách nhiệm cho các trưởng khoa lâm sàng tổ chức thực hiện CSNBTD, xoá bỏ mô hình phân công chăm sóc theo công việc mà thay vào đó là mô hình phân công chăm sóc theo đội hoặc nhóm thay cho chăm sóc theo công việc, và (5) Giao trách nhiệm cho các khoa, đơn vị cận lâm sàng (xét nghiệm, dược, vật tư-trang thiết bị, kiểm soát nhiễm khuẩn, dinh dưỡng) cung cấp dịch vụ tại các khoa lâm sàng để giành thời gian cho người điều dưỡng chăm sóc người bệnh nhiều hơn.

Năm 2011, thông tư 07/2011/TT – BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế đã đề ra những nội dung sau: (1) Người bệnh là trung tâm của công tác chăm sóc nên phải được chăm sóc toàn diện, liên tục, bảo đảm hài lòng, chất lượng và an toàn. (2) Bệnh viện công lập từ hạng III trở lên thành lập Hội đồng Điều dưỡng và phòng Điều dưỡng, tổ chức, nhiệm vụ và hoạt động của Hội đồng Điều dưỡng. (3) Bệnh viện phải bảo đảm đủ nhân lực điều dưỡng viên, hộ sinh viên theo quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 5/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Nội vụ về Hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế Nhà nước để bảo đảm chăm sóc người bệnh liên tục. (4) Bệnh viện căn cứ vào đặc điểm chuyên môn của từng khoa để áp dụng một trong các mô hình phân công chăm sóc sau đây: mô hình phân công điều dưỡng chăm sóc chính, mô hình phân công chăm sóc theo nhóm và mô hình phân công chăm sóc theo đội. (5) Bệnh viện trang bị đủ các thiết bị và phương tiện để bảo đảm yêu cầu chăm sóc người bệnh. (6) Bệnh viện xây dựng chương trình đào tạo và tổ chức đào tạo định hướng cho điều dưỡng viên, hộ sinh viên.

          Trong bài này, chúng tôi muốn trao đổi với bạn đọc quan điểm về chăm sóc sức khoẻ “Lấy người bệnh làm trung tâm” mà Tổ chức Y tế Thế giới đang quan tâm. Xác định rõ điều này, các cơ sỏ y tế cần quan tâm tới những nội dung sau đây:

          - Tầm nhìn của chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm là: Những cá nhân, gia đình và cộng đồng được hệ thống y tế chăm sóc bảo đảm chất lượng, đáng tin cậy và đáp ứng nhu cầu của con người một cách toàn diện ở mọi lúc và mọi nơi.

- Cần xác định, phương pháp tiếp cận lấy người bệnh làm trung tâm trong chăm sóc sức khoẻ không phải là phương pháp chăm sóc xa xỉ, tốn kém mà là sự cần thiết. Theo Mahatma Gandhi (vị anh hùng dân tộc của Ấn Độ) “Khách hàng là người khách quan trọng nhất của cơ sở y tế chúng ta. Họ không phụ thuộc vào chúng ta mà chúng ta phụ thuộc vào họ. Họ không làm gián đoạn công việc của chúng ta mà họ là mục tiêu của chúng ta. Họ không phải là người ngoài cuộc mà là đối tác, là đối tượng cần quan tâm phục vụ của chúng ta. Không phải chúng ta cho họ đặc ân mà họ đang cho chúng ta đặc ân bởi họ đang tạo cơ hội công ăn việc làm cho chúng ta”.

          Với những quan điểm trên, chúng tôi hy vọng, trong thời gian tới người và nghề Điều dưỡng Việt Nam nói chung và Điều dưỡng Bệnh viện đa khoa Phước Long nói riêng sẽ được các cơ quan có thẩm quyền, được cán bộ y tế và người dân nhìn nhận rõ hơn, đầu tư phát triển nhiều hơn để họ có thể đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng tốt hơn.




Mạc Phước An - TP. Điều Dưỡng Theo Tài liệu Hội Điều dưỡng Việt Nam



Các ý kiến của bạn đọc





LIÊN HỆ

TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN PHƯỚC LONG
Địa chỉ: Ấp Long Thành, Thị trấn Phước Long, huyện Phước Long, Bạc Liêu

Điện thoại: (84-0291)3 864 279
Cấp cứu: 02913.864.191

Giấy phép số: 02/GP-TTĐT ngày 18/8/2014 của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bạc Liêu

SƠ ĐỒ ĐƯỜNG ĐI