Sức khoẻ là vốn
quý nhất của mỗi con người và mỗi gia đình. Người càng yếu, người trở về già
hiểu rõ hơn giá trị của sức khoẻ. Đầu tư cho sức khoẻ là đầu tư cho sự phát
triển giống nòi, xã hội, đất nước và mang lại chất lượng cuộc sống cho mỗi các
nhân, gia đình. Tuổi thọ của người Việt Nam ngày càng được cải thiện đồng
nghĩa với tỷ lệ người cao tuổi ngày một tăng, dẫn đến nhu cầu chăm sóc sức khoẻ
ngày càng cao và vai trò của người cán bộ y tế càng nặng nề.
Nói đến chăm sóc sức khoẻ,
chúng ta không thể không nhắc tới người điều dưỡng và nghề điều dưỡng, họ là
lực lượng chính mang dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tới cộng đồng, tới vùng khó
khăn, vùng dân tộc it người, vùng xa xôi hẻo lánh. Có thể nói, người đầu tiên
đón em bé chào đời là người hộ sinh. Người nâng giấc, chăm sóc, an ủi người
bệnh lúc đau yếu, những giờ phút cuối đời tại bệnh viện chính là người điều
dưỡng. Vì vậy, Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá dịch vụ chăm sóc sức khoẻ do
người điều dưỡng-hộ sinh cung cấp là trụ cột của hệ thống y tế.
Trong suốt thời gian dài, kể
từ khi người Pháp du nhập Y học hiện đại vào Việt Nam, cho đến thập kỷ của
những năm 1990, Điều dưỡng Việt Nam mới được coi là một nghề, nó được thể hiện
qua hệ thống đào tạo chuyên ngành, hệ thống quản lý ngành dọc và sự hình thành
phát triển Hội nghề nghiệp.
Trước năm 1990, người Điều
dưỡng có tên gọi Y tá với chức năng phụ thuộc và vai trò phụ giúp, thực hiện y
lệnh của Bác sĩ là chính. Họ chỉ được đào tạo ngắn hạn dưới một năm (sơ học) và
theo phương pháp cầm tay chỉ việc là chính. Từ năm 1968, người Y tá tại phía
Bắc Việt Nam
được đào tạo chính quy ở trình độ trung học với thời gian 2,5 năm cho những
người đã tốt nghiệp trung
học cơ sở (7/10 năm) và sau đó (1975) là tốt nghiệp trung học phổ thông
(10/10). Trong khi đó, tại Phía Nam,
người Y tá được đào tạo theo hệ thống y tế của Mỹ theo chương trình Cán sự điều
dưỡng (3 năm). Năm 1975, thống nhất hai miền Bắc-Nam, điều dưỡng được đào tạo
theo 2 chương trình sơ học (dưới 2 năm) và trung học (2,5 năm). Năm 1985, 1986
với mong muốn người y tá Việt Nam có trình độ như y tá của các nước Châu Âu để
họ có thể đảm đương được vai trò chủ động, độc lập hơn trong chăm sóc, đáp ứng
được sự phát triển của y học hiện đại và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Bộ
Y tế phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo đã thực hiện một chương trình đào tạo thí
điểm y tá có trình độ đại học tại chức 4 năm cho những y tá đã tốt nghiệp y tá
trung học, có 5 năm kinh nghiệm công tác và vượt qua kỳ thi tuyển đại học tại
chức cấp quốc gia. Hai khoá thí điểm y tá cấp cao đầu tiên được thực hiện tại
Đại học Y khoa Hà Nội và Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh và 5 năm sau, Bộ
Y tế và Bộ Giáo dục đào tạo đã tổng kết, rút kinh nghiệm và quyết định đưa vào
đào tạo điều dưỡng chính quy 4 năm từ 1995 tại hai trường trên. Hiện nay, Việt Nam đang thực
hiện 4 chương trình đào tạo điều dưỡng: y tá thôn bản (1 năm) điều dưỡng trung
học (2 năm), điều dưỡng cao đẳng (3 năm), cử nhân điều dưỡng (4 năm) và thạc sĩ
điều dưỡng (2 năm).
Về hệ thống tổ chức, nghề
Điều dưỡng đã được Nhà nước quan tâm và phát triển ở tất cả các cấp quản lý của
ngành y tế. Hiện tại một điều dưỡng đang giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Quản lý
khám của bệnh, nơi có một Phòng Điều dưỡng với tất cả các thành viên là điều
dưỡng. Các Sở Y tế có Điều dưỡng trưởng Sở Y tế, các bệnh viện có Phòng Điều
dưỡng. Các trường y tế có khoa hoặc bộ môn điều dưỡng. Một số bệnh viện, trường
y tế có lãnh đạo là điều dưỡng. Như vậy, người điều dưỡng Việt Nam đã được Nhà
nước, ngành y tế thừa nhận và họ đang góp phần quan trọng trong việc đề xuất và
xây dựng chính sách cho điều dưỡng-hộ sinh.
Về Hội nghề nghiệp, Hội Điều
dưỡng Việt Nam được thành lập năm 1990, tới nay đã 24 năm, 24 năm qua không
phải là dài nhưng là quá trẻ so với nhiều hội y khoa khác trong nước và còn rất
trẻ so với các Hội điều dưỡng nước ngoài. Song, lịch sử phát triển ngành nghề điều
dưỡng Việt Nam từ năm 1990 đến nay gắn liền với sự phát triển Hội Điều dưỡng
Việt Nam. Hội Điều dưỡng Việt Nam với khoảng 61 ngàn hội viên đã và đang đóng
vai trò quan trọng trong tư vấn xây dựng chính sách, phản biện và bảo vệ quyền
lợi hợp pháp cho người điều dưỡng Việt Nam. Nếu nói đến ngạch công chức, ngạch
lương, chương trình đào tạo điều dưỡng, các quy trình chuyên môn cho điều
dưỡng, các danh hiệu thi đua cao quý “Thầy thuốc ưu tú, thầy thuốc nhân dân”
cho người điều dưỡng và cán bộ y tế khác…đều có vai trò vận động của Hội Điều
dưỡng Việt Nam.
Về thực hành chăm sóc, có thể
nói chương trình đào tạo ảnh hưởng và tác động rất lớn tới thực hành nghề
nghiệp. Lâu nay, chương trình đào tạo điều dưỡng được xây dựng dựa trên mô tả
công việc và xác định chức năng, nhiệm vụ của người y tá là thực hiện y lệnh,
phụ thuộc vào chỉ định của bác sĩ nên công tác chăm sóc của điều dưỡng chưa đáp
ứng được cầu cơ bản của người bệnh. Hầu hết công tác chăm sóc cơ bản cho người
bệnh được người nhà đảm nhiệm. Để khắc phục tình trạng này, năm 1993, Bộ trưởng
Bộ Y tế đã ra Quyết định 526/QĐ-BYT ban hành chế độ trách nhiệm của y tá trong
việc chăm sóc người bệnh tại bệnh viện và công văn số 3722/BYT-ĐTr hướng dẫn triển khai quyết định trên.
Hai văn bản nói trên đã đề cập đến khai niệm “Chăm sóc người bệnh toàn diện”
(CSNBTD) và quy định trách nhiệm của y tá là chăm sóc người bệnh cả về thể chất,
tinh thần và xã hội chứ không chỉ tập trung vào việc thực hiện y lệnh điều trị.
Năm 1996, do nhu cầu chất
lượng chăm sóc người bệnh và củng cố phát triển hệ thống quản lý điều dưỡng,
Thông tư 11/1996/TT-BYT về hướng dẫn tổ chức thực hiện CSNBTD và củng cố hệ
thống điều dưỡng trưởng được ra đời. Một năm sau (1997), công tác CSNBTD được
thể chế hoá thành Quy chế chăm sóc người bệnh toàn diện (CSNBTD) trong Quy chế
bệnh viện. Tại Quy chế này, Bộ Y tế đã đưa ra khái niệm CSNBTD là sự chăm sóc,
theo dõi người bệnh của bác sĩ và điều dưỡng trong suốt thời gian nằm viện tại
bệnh viện nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nguời bệnh cả về thể chất, tinh thần
và xã hội. Quy chế cũng quy định nội dung CSNBTD dựa vào mức độ phụ thuộc của
người bệnh tới nhân viên y tế theo phân cấp chăm sóc và giao trách nhiệm cụ thể
của từng cá nhân trong chăm sóc, bao gồm cả bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý, y công,
người bệnh và người nhà người bệnh.
Năm 2003, Chỉ thị
05/2003/BYT-CT của Bộ trưởng Bộ Y tế đã yêu cầu mọi cán bộ y tế đều có trách nhiệm thực hiện
CSNBTD, các bệnh viện phải tăng cường công tác chăm sóc người bệnh toàn diện
thông qua 5 hoạt động chính: (1) Kiện toàn mạng lưới điều dưỡng trưởng từ Sở Y
tế đến tận khoa-phòng trong bệnh viện, (2) Thành lập Ban chỉ đạo chăm sóc người
bệnh toàn diện bao gồm các thành phần liên quan để tăng cường chỉ đạo CSTD, (3)
Yêu cầu Giám đốc bệnh viện phải đầu tư cho công tác chăm sóc toàn diện qua đào
tạo, bổ sung nguồn lực và phát động phong trào thi đua, (4) Giao trách nhiệm
cho các trưởng khoa lâm sàng tổ chức thực hiện CSNBTD, xoá bỏ mô hình phân công
chăm sóc theo công việc mà thay vào đó là mô hình phân công chăm sóc theo đội
hoặc nhóm thay cho chăm sóc theo công việc, và (5) Giao trách nhiệm cho các
khoa, đơn vị cận lâm sàng (xét nghiệm, dược, vật tư-trang thiết bị, kiểm soát
nhiễm khuẩn, dinh dưỡng) cung cấp dịch vụ tại các khoa lâm sàng để giành thời
gian cho người điều dưỡng chăm sóc người bệnh nhiều hơn.
Năm 2011, thông tư 07/2011/TT – BYT của Bộ
trưởng Bộ Y tế đã đề ra những nội dung sau: (1) Người
bệnh là trung tâm của công tác chăm sóc nên phải được chăm sóc toàn diện, liên
tục, bảo đảm hài lòng, chất lượng và an toàn. (2) Bệnh viện công lập từ hạng III trở lên thành lập Hội đồng Điều dưỡng và
phòng Điều dưỡng, tổ chức, nhiệm vụ và hoạt động của
Hội đồng Điều dưỡng. (3) Bệnh viện phải bảo đảm
đủ nhân lực điều dưỡng viên, hộ sinh viên theo quy định tại Thông tư liên
tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 5/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng
Bộ Nội vụ về Hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế Nhà
nước để bảo đảm chăm sóc người bệnh liên tục. (4) Bệnh viện căn cứ vào đặc điểm chuyên môn của từng khoa để áp dụng một trong
các mô hình phân công chăm sóc sau đây: mô hình phân công điều
dưỡng chăm sóc chính, mô hình phân công chăm sóc
theo nhóm và mô hình phân công chăm sóc theo đội. (5) Bệnh viện trang bị đủ các thiết bị và phương tiện
để bảo đảm yêu cầu chăm sóc người bệnh.
(6) Bệnh
viện xây dựng chương trình đào tạo và tổ chức đào tạo định hướng cho điều dưỡng
viên, hộ sinh viên.
Trong bài này, chúng tôi muốn trao đổi với
bạn đọc quan điểm về chăm sóc sức khoẻ “Lấy người bệnh làm trung tâm” mà Tổ
chức Y tế Thế giới đang quan tâm. Xác định rõ điều này, các cơ sỏ y tế cần quan tâm tới những nội
dung sau đây:
- Tầm nhìn của chăm sóc lấy người bệnh làm
trung tâm là: Những cá nhân, gia đình và cộng đồng được hệ thống y tế chăm sóc
bảo đảm chất lượng, đáng tin cậy và đáp ứng nhu cầu của con người một cách toàn
diện ở mọi lúc và mọi nơi.
- Cần xác định, phương pháp
tiếp cận lấy người bệnh làm trung tâm trong chăm sóc sức khoẻ không phải là
phương pháp chăm sóc xa xỉ, tốn kém mà là sự cần thiết. Theo Mahatma Gandhi (vị
anh hùng dân tộc của Ấn Độ) “Khách hàng là người khách quan trọng nhất của cơ
sở y tế chúng ta. Họ không phụ thuộc vào chúng ta mà chúng ta phụ thuộc vào họ.
Họ không làm gián đoạn công việc của chúng ta mà họ là mục tiêu của chúng ta.
Họ không phải là người ngoài cuộc mà là đối tác, là đối tượng cần quan tâm phục
vụ của chúng ta. Không phải chúng ta cho họ đặc ân mà họ đang cho chúng ta đặc
ân bởi họ đang tạo cơ hội công ăn việc làm cho chúng ta”.
Với những quan điểm trên, chúng tôi hy vọng,
trong thời gian tới người và nghề Điều dưỡng Việt Nam nói chung và Điều dưỡng
Bệnh viện đa khoa Phước Long nói riêng sẽ được các cơ quan có thẩm quyền, được
cán bộ y tế và người dân nhìn nhận rõ hơn, đầu tư phát triển nhiều hơn để họ có
thể đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày
càng tốt hơn.
Mạc Phước An - TP. Điều Dưỡng
Theo Tài liệu Hội Điều dưỡng Việt Nam