Mở đầu
Có rất nhiều loại xét nghiệm đông máu; Và rất nhiều bệnh có biểu hiện `rối loạn đông máu với các mức độ khác nhau. Chỉ định xét nghiệm thế nào để có
thể chẩn đoán chính xác được bệnh? Đồng thời vừa tiết kiệm thời gian, vừa tiết
kiệm hóa chất và công sức của các cán bộ phòng xét nghiệm? … Đó là những câu
hỏi luôn được đặt ra cho các thầy thuốc lâm sàng đứng trước một trường hợp có
xuất huyết/chảy máu.
Nhằm giải quyết những vấn đề kể trên hiện nay trên thế giới rất phổ
biến cách sử dụng các xét nghiệm vòng đầu
(first-line tests) như một biện pháp chỉ định xét nghiệm đông máu hợp
lý. Từ kết quả có được qua các xét nghiệm vòng đầu có thể sơ bộ phân nhóm các
bệnh lý gây ra rối loạn đông máu bệnh nhân đó; Tiếp theo mới tiến hành thực
hiện các thăm dò vòng hai (second-line
investigations)
Các xét nghiệm vòng đầu bao gồm 4
test sau:
1.
Thời gian prothrombin (PT) (Thời gian Quick): Là xét nghiệm để đánh giá
đông máu theo con đường ngoại sinh.
2.
Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (APTT) (TCK: thời gian cephalin
kaolin)
Là xét nghiệm để đánh
giá tổng quát đông máu theo con đường nội sinh.
(Trong trường hợp không làm được xét
nghiệm APTT thì có thể thay bằng xét nghiệm thời gian Howell hay thời gian cephalin
(PTT); Tuy nhiên cần lưu ý rằng các xét nghiệm này không nhạy bằng (APTT)).
3.
Thời gian thrombin (TT)
Là xét nghiệm đánh giá giai đoạn cuối
của quá trình đông máu: Fibrinogen chuyển thành fibrin dưới tác dụng xúc tác
của thrombin.
4.
Số lượng tiểu cầu
Là xét nghiệm có ý
nghĩa rất lớn để phát hiện các rối loạn quá trình cầm máu.
Cả 4 xét nghiệm kể trên – nói chung –
rất dễ làm, thông dụng, hầu hết các labo đông máu đều có thể làm được.
Từ các kết quả xét
nghiệm vòng đầu người thầy thuốc dễ dàng phân tích, đánh giá để loại trừ bớt
bệnh lý có gây ra rối loạn đông máu; chỉ khu trú vào một bệnh hoặc một nhóm nhỏ
các bệnh lý nào đó và do vậy và có thể chỉ định thăm dò vòng hai cụ thể cần
thiết và hợp lý hơn.
Một quy trình tổng
quát để chẩn đoán bệnh lý rối loạn đông máu trong đó có thực hiện chỉ định xét
nghiệm hợp lý (sơ đồ 1).
Lưu ý: Các thăm dò
vòng hai là gồm tất cả các loại xét nghiệm về cầm máu-đông máu-tiêu fibrin với
mức độ sâu hơn, chuyên khoa hơn; Đồng thời bao gồm cả các thăm dò hoặc xét nghiệm
của các chuyên khoa khác nếu cần; và không loại trừ việc tìm hiểu tiền sử bệnh
tật, tiền sử gia đình, tiền sử sử dụng thuốc, hóa chất …của bệnh nhân.
Quy trình chẩn đoán
có thực hiện chỉ định xét nghiệm hợp lý kể trên rất có lợi trong việc sàng lọc
các bệnh lý đông máu mới gặp, tạo điều kiện thuận lợi cho các thầy thuốc-đặc
biệt là thầy thuốc không chuyên khoa huyết học, thầy thuốc trẻ có thể tìm ra
một chẩn đoán đúng.
Dưới đây chúng tôi
xin cụ thể hóa hai bước để chẩn đoán một rối loạn đông máu có thực hiện chỉ
định xét nghiệm đông máu hợp lý (xét nghiệm vòng đầu và các xét nghiệm vòng
hai).
Sơ đồ 1:
Quy trình tổng quát để chẩn đoánBệnh lý
rối loạn đông máu.
I. BƯỚC MỘT: THỰC HIỆN CÁC XÉT NGHIỆM VÒNG ĐẦU
Là tiến hành 4 xét nghiệm: PT, APTT,
TT và số lượng tiểu cầu.
Rồi từ các kết quả có được sơ bộ phân
chia các bệnh lý gây ra rối loạn đông máu thành các nhóm nhỏ. Các kết quả và
xét nghiệm vòng đầu và các nhóm bệnh lý có thể được tóm tắt trong bảng .
II. BƯỚC HAI: THỰC HIỆN THÊM CÁC THĂM DÒ VÒNG HAI
(SECOND-LINE INVESTIGATIONS)
Trên cơ sở phân tích các kết quả vòng
đầu, để đưa ra một nhận định sơ bộ về bệnh lý gây ra chảy máu đối với bệnh nhân
cụ thể đó. Tiếp đến là sẽ làm thêm các xét nghiệm hoặc thăm dò khác để có thể
đưa ra một chẩn đoán đúng.
Cụ thể như sau:
1.
Nhóm một: Là nhóm có kết quả xét nghiệm vòng đầu như sau:
PT, APTT, TT và số lượng tiểu cầu đều
bình thường nhưng trên lâm sàng bệnh nhân có xuất huyết/chảy máu.
Nên nghĩ đến các nguyên nhân sau:
a) Một
bệnh lý chức năng tiểu cầu nào đó:
- Bệnh lý chức năng
tiểu cầu có thể gặp là:
+ Bệnh lý tiểu cầu thể tạng: bệnh suy
nhược tiểu cầu Glanzmann, bệnh loạn dưỡng tiểu cầu xuất huyết (Jean
Bernard-Soulier), bệnh kho dự trữ…
+ Bệnh lý tiểu cầu mắc phải: hội chứng
rối loạn sinh tủy, hội chứng tăng sinh tủy, bệnh huyết sắc tố, thiếu máu ác
tính Biermer. Hoặc trong bệnh lý không phải của chuyên khoa huyết học như: bệnh
collagen, bệnh suy thận, bệnh tim bẩm sinh…, hoặc do uống một số thuốc như: aspirin,
phenylbutazon và các thuốc kháng viêm không steroid khác.
Bảng 1: Kết quả của các xét
nghiệm vòng đầu (first-line tests).
Nhóm
|
Xét nghiệm
|
Bệnh lý có thể là
|
PT
|
APTT
|
TT
|
Tiểu cầu
|
1
|
Bình thường
|
Bình thường
|
Bình thường
|
Bình thường
|
- Bệnh lý chức năng tiểu cầu.
- Thiếu hụt yếu tố XIII.
- Bệnh lý đông máu do mạch máu.
- Tình trạng đông máu bình thường.
|
2
|
Dài
|
Bình thường
|
Bình thường
|
Bình thường
|
- Thiếu hụt yếu tố VII.
- Mới dùng thuốc chống đông đường uống.
|
3
|
Bình thường
|
Dài
|
Bình thường
|
Bình thường
|
- Thiếu hụt VIII: C, IX, XI, XII, Prekallikrenin, HMWK;
- Bệnh von-Willebrand.
- Có chất kháng đông lưu hành.
|
4
|
Dài
|
Dài
|
Bình thường
|
Bình thường
|
- Thiếu vitamin K.
- Dùng thuốc chống đông đường uống.
- Thiếu hụt II, V, VII, X.
|
5
|
Dài
|
Dài
|
Dài
|
Bình thường
|
- Đang sử dụng heparin.
- Bệnh gan.
- Thiếu Fibrinogen.
- Tăng tiêu hủy fibrin.
|
6
|
Bình thường
|
Bình thường
|
Bình thường
|
Thấp
|
- Giảm tiểu cầu.
|
7
|
Dài
|
Dài
|
Bình thường
|
Thấp
|
- Truyền nhiều máu lưu trữ lâu
- Bệnh gan
|
8
|
Dài
|
Dài
|
Dài
|
Thấp
|
- Đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC);
- Bệnh gan cấp.
|
Cần tiến hành làm
thêm các xét nghiệm vòng hai: xét nghiệm về các chức năng tiểu cầu như: độ dính
tiểu cầu, độ ngưng tập tiểu cầu (với ADP, collagen, ristocetin, adrenalin,
thrombin, acid arachidonic) , nghiên cứu về các hạt nội tiểu cầu và sự phóng
thích các hạt đó, chỉ số tiêu thụ prothrombin của tiểu cầu, thời gian máu chảy…
Hiện nay ở nước ta tại một số trung
tâm huyết học lớn đã tiến hành xét nghiệm đo độ ngưng tập tiểu cầu, đây là một
xét nghiệm tốt, đặc biệt la trong việc phát hiện và chẩn đoán phân biệt một số
bệnh lý về chức năng tiểu cầu (xem bảng 2)
Bảng 2:
chẩn đoán phân biệt các bệnh lý về chức năng tiểu cầu
Bệnh lý
|
Tiểu cầu
|
Xét nghiệm ngưng tập tiểu cầu với
|
Số lượng
|
Kích thước
|
ADP
|
Col.
|
Ri
|
AA
|
F VIII
|
Suy nhược tiểu cầu
|
N
|
N
|
O
|
O
|
Ab
|
O
|
Ab
|
H.C Bernard-Soulier
|
Cao
|
To
|
N
|
N
|
O
|
N
|
O
|
Bệnh kho dự trữ
|
N
|
N
|
1
|
Ab
|
1/0
|
1/0
|
1/0
|
Thiếu cyclo-oxygenase
|
N
|
N
|
1/N
|
Ab
|
N
|
Ab
|
-
|
Thiếu thromboxan synthetase
|
N
|
N
|
1/N
|
Ab
|
N
|
Ab
|
-
|
Uống aspirin
|
N
|
N
|
1
|
Ab
|
N/Ab
|
Ab
|
N/Ab
|
Hội chứng Ehler-Danlos
|
N
|
N
|
N
|
Ab
|
N
|
N
|
-
|
Bệnh von-Willebrand
|
N
|
N
|
N
|
N
|
O
|
N
|
N
|
Chú thích:
+
N: (Normal) bình thường + Col: collagen; + Ri: Ristocetin
+
O: Không (ngưng tập) +1:
Chỉ ở sóng thứ nhất
+ Ad:
(Abnormal) bất thường + AA: Acid
aracchidonic
+ F VIII:
Phức hợp yếu tố VIII lợn / fibrinogen bò
b) Do thiếu hụy yếu tố XIII: Để xác định chính xác
nên làm thêm các xét nghiệm vòng hai, như: co cục máu, am trong đàn hồi cục máu
đó (TEG).
c) Bệnh lý mạch máu:
Có thể gặp ở một số
bệnh như viêm thành mạch dị ứng (Schonlein Henoch), bệnh giãn mạch xuất huyết
di truyền (Rendu- Osler), ban xuất huyết ở người già…
Trong đó cần chú ý là
bệnh viêm thành mạch dị ứng (Schonlein- Henoch). Cần tiến hành làm dấu hiệu dây
thắt, khám xét lâm sàng… và nếu cần thì điều trị thử một phác đồ gồm kháng sinh,
corticoid và vitamin C.
d) Ngoài ra có thể
gặp trong một số bệnh lý khác như: Đái đường tăng ure huyết, dị ứng thuốc,
sử dụng corticoid…Cần làm các xét nghiệm thăm dò khác (đường máu, ure máu…)
hoặc khai thác tiền sử để chẩn đoán.
e) Có thể tình trạng đông máu của bệnh nhân là hoàn toàn
bình thường; Dấu hiệu xuất huyết/ chảy máu không phải do rối loạn cầm- đông mà
do các thương tổ thực thể, như đứt, dập cơ, mạch máu; hoặc do sang chấn gây bầm
tím …
f) Cần lưu ý thêm: Có thể có một bệnh lý đông máu nhẹ mà
các xét nghiệm thông thường kể trên không đủ nhạy để phát hiện như: Thiếu nhẹ
yếu tố VIII (chỉ giảm<30% bình thường), yếu tố IX hoặc ở một số trường hợp
bệnh von – Willebrand.
Các xét nghiệm vòng
hai để phát hiện rõ nét các bệnh này là: Định lượng yếu tố VIII, IX; các xét
nghiệm tìm hiểu yếu tố von-Willebrand, thời gian máu chảy…
2. Nhóm hai: Là nhóm có các kết quả xét nghiệm vòng đầu
biểu hiện như sau:
PT kéo dài, còn APTT, TT và số lượng
tiểu cầu đều ở số lượng bình thường.
Như vậy ở đây chỉ có biểu hiện rối
loạn đông máu của con đường ngoại sinh, do có thể có hai nguyên nhân sau:
Thiếu hụt yếu tố VII: xét nghiệm
vòng hai sẽ là định lượng yếu tố VII, thử nghiệm P và P( prothrombin and
proconvertin test), thrombotest…
Hoặc do bệnh nhân có dùng thuốc
chống đông đường uống trong vòng 12-36
giờ: Các thuốc chống đông đường uống (như warfarin…) đã tác động lên con đường
đông máu ngoại sinh; ở giai đoạn sớm biểu hiện trên xét nghiệm chỉ là kéo dài
thời gian prothrombin.
Việc cần thiết là cần tìm hiểu bệnh
nhân có sử dụng các thuốc chống đông đường uống (các thuốc kháng vitaminK)
không?
3.
Nhóm ba: Các xét nghiệm vòng đầu biểu hiện như sau:
Xét nghiệm APTT kéo dài; còn các xét
nghiệm PT, TT và số lượng tiểu cầu ở trong giới hạn bình thường. Ở đây có các
rối loạn đông máu theo con đường nội sinh, do đó chỉ thể hiện kéo dài thời gian
thromboplastin hoạt hóa từng phần (APTT).
Có thể do những nguyên nhân sau:
Thiếu hụt các yếu tố VIII, IX, XI,
XII, prekallikrein và kininogen có trọng lượng phân tử cao (HMWK). Các xét
nghiệm vòng hai là: Định lượng các yếu tố VIII, IX, XI, XII…, tìm hoạt độ của
hệ thống tiếp xúc, nghiệm pháp sinh thromboplastin.
Bệnh von-Willebrand: Cần làm thêm
xét nghiệm thời gian máu chảy, định lượng yếu tố VIII: C, định lượng v-WF;
v-WF:Ag…
Một nguyên nhân rất thường gặp gây
kéo dài APTT là do heparin, có thể do điều trị hoặc do heparin bị nhiễm ngay
tại các dụng cụ lấy bệnh phẩm (bơm kim lấy máu, ống tube đựng máu…). Tuy nhiên
nếu có thì thường làm kéo dài cả TT và PT, vì các xét nghiệm này khá nhạy vơi
heparin.
Có thể đang có chất kháng đông/chát
ức chế lưu hành trong tuần hoàn. Cần làm thêm các xét nghiệm để phát hiện chất
không đông lưu hành.
Chú ý: nên mở rộng tìm hiểu thêm đó là
loại chất kháng đông tác dụng ngay (immediately acting inhibitor), hay đó là
chât kháng đông phụ thuộc thời gian (time-dependent inhibitor) bằng xét nghiệm
sàng lọc chất kháng đông dựa trên kỹ thuật APTT.
Trong các chất kháng đông cần lưu ý
nhất là kháng đông lupus ban đỏ, với các đặc tính sau:
+ Đó là nhựng globulin miễn dịch thuộc
loại IgG và IgM. Chúng không tác động lên các yếu tố đông máu mà tác động vào
phospholipid trong phức hợp tham gia vào việc biến đổi prothrombin thành
thrombin, bằng việc làm kết tủa các phospholipid anion này.
+ khi có kháng đông lupus ban đỏ lưu
hành trong máu, nói chung những xét nghiệm phụ thuộc phospholipid
(phospholipid-dependent tests) là hay bị biến đổi, như: APTT, thời gian Stypven
và PT; trong đó APTT biến đổi là rõ nhất, còn PT thì thay đổi không rõ và không
ổn định.
+ Khoảng 10% bệnh nhân lupus bang đỏ
rải rác là có chất kháng đông lưu hành.
+ Lưu ý: ở một số bệnh nhân có chất
kháng đông lupus thì có thể có VDRL dương tính giả ; phụ nữ có thai thì hay bị
sẩy thai hoặc bị huyết khối, tắc mạch.
4.
Nhóm bốn: Là nhóm có kết quả xét nghiệm vòng đầu như sau:
PT và APTT kéo dài, còn TT và tiểu cầu
trong giời hạn bình thường.
Có thể vì các lí do sau:
- Thiếu vitamin K : Lúc
này PT thường bị rối loạn hơn APTT. Cần tìm hiểu thêm các nguyên nhân làm giảm
vitamin K (như nuôi dưỡng bằng ngoài đường tiêu hóa, điều trị kháng sinh kéo
dài...). Có thể điều trị thử vitamin K sau đó vài ngày kiểm tra lại PT và APTT.
- Đang sử dụng các chất
chống đông đường uống (các thuốc kháng vitamin K); xét nghiệm PT rối loạn rõ hơn
APTT. Cần tìm hiểu việc sử dụng thuốc của bệnh nhân.
5. Nhóm năm: Kết quả các xét nghiệm vòng đầu là:
PT, APTT và TT đều kéo
dài, chỉ có số lượng tiểu cầu là ở giới hạn bình thường.
Có thể là một trong số
các nguyên nhân sau:
Bệnh nhân đang sử dụng
heparin: Cần khai thác tiền sử dùng thuốc, đều này không khó khăn lắm, vì xét
nghiệm chỉ thay đổi nếu có dùng heparin trong 6 giờ. Tuy nhiên để chắc chắn,
sau 6 giờ nên kiểm tra lại APTT.
Cần lưu ý: nếu sử dụng
heparin kéo dài cũng có thể gây ra giảm tiểu cầu.
Do giảm hoặc loạn
fibrinogen máu (hypofibrinogenemia or dis-fibrinogenemia): Nên định lượng
fibrinogen, xét nghiệm thời gian reptilase.
Trong một số bệnh gan:
vì hầu hết các yếu tố đông máu theo con đường nội sinh, ngoại sinh đều do gan
tổng hợp nên. Nếu bị bệnh gan, các yếu tố đông máu bị thiếu hụt, dẫn đến rối
loạn tất cả các xét nghiệm PT, APTT và TT. Nên kiểm tra chức năng gan, siêu âm…
để phát hiện một bệnh lí nào đó về gan.
Hoặc do tăng tiêu hủy
fibrin (hyperfibrinolysis) có thể do một bệnh lý ác tính, bệnh lý gan, hoặc
tiên phát không rõ nguyên nhân; Hiện nay phổ biến nhất là do dùng các thuốc
tiêu fibrin (streptokinase, urokinase, t-PA…). Các xét nghiệm trong vòng hai
cần làm sẽ là:
+ Định lượng FDPs trong
huyết tương.
+ Thời gian tiêu
euglobulin hoặc thời gian tiêu cục máu toàn phần v.v…
6. Nhóm sáu: Kết quả các xét nghiệm vòng đầu như sau:
PT, APTT và TT bình
thường, còn số lượng tiểu cầu giảm.
Lý do gây xuất huyết ở
bệnh nhân là do giảm tiểu cầu. Chẩn đoán giảm tiểu cầu thì không khó. Vấn đề
đặt ra là phải chẩn đoán nguyên nhân gây giảm tiểu cầu. Muốn vậy thì cần phải
làm thêm các xét nghiệm như tủy đồ, tìm kháng thể kháng tiểu cầu… để xác định
đó là bệnh xuất huyết do giảm tiểu cầu có nguyên nhân miễn dịch (ITP), suy-giảm
tủy xương, hay là lơxêmi cấp…
Ngoài ra cần làm xét
nghiệm miễn dịch để tìm kháng thể chống tiểu cầu trong bệnh ITP.
7. Nhóm bảy: Là nhóm có kết quả các xét nghiệm vòng đầu như sau:
PT và APTT kéo dài, số lượng tiểu cầu giảm, nhưng TT vẫn bình thường. Có
thể là do:
Sau khi truyển một
lượng lớn máu lưu trữ, trong đó fibrinogen còn khá nhiều, nhưng không còn các
yếu tố VIII, V và tiểu cầu.
Cần tìm hiểu tiền sử
truyền máu của bệnh nhân.
Hoặc có thể gặp ở một
số bệnh nhân bị bệnh gan mạn tính, đặc biệt là xơ gan. Cần kiểm tra bệnh lý về
gan của bệnh nhân.
8. Nhóm tám: Kết quả các xét nghiệm vòng đầu biểu hiện:
Rối loạn tất cả bốn xét
nghiệm: PT, APTT, TT đều kéo dài; số lượng tiểu cầu giảm, có thể do:
Đông máu rải rác trong
lòng mạch (DIC): Do hiện tượng tiêu thụ quá mạnh các yếu tố máu và tiểu cầu cho
nên rối loạn thể hiện rất rầm rộ.
Cần làm thêm: Nghiệm pháp
ethanol; thời gian tiêu euglobulin , FDPs,…
Hoặc do hoại tử gan cấp
kèm theo DIC: Lâm sàng thể hiện rất nặng. Cần làm thêm các xét nghiệm về DIC và
kiểm tra bệnh lý về gan.
*Tóm lại:
Với bốn xét nghiệm vòng
đầu PT, APTT, TT, số lượng tiểu cầu người thầy thuốc đã cơ bản định hướng một
cách nhanh chóng cho việc tiếp tục làm thêm xét nghiệm/thăm dò gì để có thể đưa
ra một chẩn đoán chính xác kịp thời cho các trường hợp bị xuất huyết trên lâm
sàng.
Hiện nay ở một số labo
đông máu thường xây dựng một tập hợp các xét nghiệm đông máu, gọi là “Đông máu toàn bộ” hay “Chức năng đông máu toàn bộ”.
Danh sách các xét nghiệm
có thể khác nhau ở từng labo, tuy nhiên thông thường vẫn là các xét nghiệm của
ba giai đoạn: cầm máu, đông máu và tiêu fibrin. Bao gồm:
Thời gian chảy máu.
Số lượng tiểu cầu.
Dấu hiệu dây thắt.
Co cục máu.
Thời gian máu đông.
Thời gian phục hồi calci (Thời gian Howell).
Thời gian prothrombin (PT) (Thời gian Quick).
Thời gian cephalin-kaolin (APTT).
Nghiệm pháp ethanol. (Nghiệm pháp rượu).
Thời gian tiêu euglobulin. (Nghiệm pháp von-Kaulla).
Định lượng fibrinogen.
Một số cơ sở có điều
kiện, có thể làm thêm: Định lượng FDP; hoặc trước đây có khi còn làm xét nghiệm
đàn hồi cục máu đồ (TEG)…
Với tổ hợp xét nghiệm
đông máu toàn bộ kể trên cho phép phát hiện ra phần lớn các rối loạn đông máu
trên lâm sàng. Tuy nhiên, ở đây có một số vấn đề chưa hợp lý do việc phải làm
quá nhiều các xét nghiệm:
+ Tốn kém hóa chất và
mất nhiều máu của bệnh nhân;
+ Mất nhiều thời gian
và công sức của các cán bộ làm xét nghiệm;
+ Đặc biệt các xét
nghiệm chồng chéo lẫn nhau (Ví dụ: ý nghĩa của ba xét nghiệm thời gian máu
đông, thời gian Howell và thời gian cephalin-kaolin là như nhau), do vậy dễ làm
cho người thầy thuốc bị rối khi phân tích các xét nghiệm;
+ Bên cạnh đó thì vẫn
có những xét nghiệm rất cần thiết nhưng chưa được chú ý (như: thời gian
thrombin…)
Bởi vậy hiện nay trên
thể giới để chẩn đoán một trường hợp xuất huyết trên lâm sàng, các thầy thuốc
thường tiến hành chỉ định thành 2 bước: Các xét nghiệm vòng đầu-với bốn xét
nghiệm APTT, PT, TT và số lượng tiểu cầu; Rồi sau đó dựa trên kết quả của bốn
xét nghiệm này sẽ làm tiếp các thăm dò vòng hai như chúng tôi đã giới thiệu ở
trên.
BS Tô Thành Nhật - TP. KHTH&VTTBYT
Theo PGS.TS. Nguyễn Anh Trí