SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG HISTAMIN
I. Histamin
là gì?
Histamin là chất sinh học có trong cơ thể ta, bình
thường không gây rối loạn mà góp phần điều hòa hoạt động sinh lý
của cơ thể. Histamin có thể được đưa từ bên ngoài vào cơ thể nhưng
rất hiếm (chỉ khi nào ăn một số cá biển bảo quản không tốt, vi
khuẩn phân hủy chất đạm của cá sinh ra histamin) mà đa phần histamin
được sinh ra trong cơ thể gọi là histamin nội sinh. Histamin nội sinh
được thành lập từ phản ứng khử carboxyl một acid amin là L - histidin.
Do hằng ngày ta ăn chất đạm tức thường xuyên được cung cấp acid amin
nên thường xuyên histamin sinh ra trong cơ thể nhưng không gây độc vì hầu
hết chúng không ở dạng tự do mà kết hợp với một số chất khác chủ
yếu là Heparin tạo thành phức hợp histamin – heparin không có hoạt
tính. Chỉ khi nào có phản ứng
kháng nguyên kháng thể đưa đến dị ứng, hoặc có tác động của các
yếu tố khác như nhiệt độ (lạnh), tổn thương tế bào, hóa chất,…phức
hợp histamin - heparin bị kích thích phóng thích ra histamin dạng tự
do. Lượng histamin này vượt ngưỡng cho phép của cơ thể và gắn với những vị trí
nhạy cảm gọi là thụ thể histamin tại tế bào đích gây ra phản ứng dị ứng.
II. Phân loại
Có 3 loại thụ thể của
Histamin
Thụ thể H1 : được tìm ra vào năm 1966,
là nơi histamin gắn vào gây hiệu ứng co thắt cơ trơn của phế quản,
ruột nhưng làm dãn cơ trơn mạch máu (nếu dãn mạch trầm trọng sẽ gây
sốc phản vệ), tăng tính thấm mao mạch gây phù nề, kích thích tận
cùng dây thần kinh gây ngứa. Thuốc kháng Histamin H1 dùng để
trị dị ứng, nôn mửa và rối loạn giấc ngủ.
Thụ thể H2 : được tìm ra vào năm 1972
nằm trên màng tế bào viền ở niêm mạc dạ dày khi histamin gắn vào sẽ
làm cho tế bào viền tiết ra HCl.
Thụ thể H3 : được tìm ra vào năm
1983 hiện diện ở một số nơi trên hệ thần kinh trung ương với nhiệm vụ
điều hòa sự tổng hợp và phóng thích histamin.
III. Thuốc kháng Histamin
Định nghĩa: Thuốc kháng histamin là
những chất có tác dụng làm giảm hoặc làm mất tác dụng của histamin
bằng cách ức chế cạnh tranh với histamin trên các thụ thể của nó
hoặc ngăn cản việc giải phóng ra histamin.
1. Thuốc
kháng Histamin ở thụ thể H1.
Phân loại theo thế hệ: gồm 3 thế
hệ
Thế hệ thứ 1: gồm các
thuốc Chlorpheniramin, dexclorpheniramin,
diphenhydramin, promethazin…Thuốc thế hệ 1 có hai bất lợi gây buồn ngủ và thời giantác dụng ngắn nên phải dùng nhiều lần/ngày.
Thế hệ thứ 2: gồm các thuốc Cetirizin, loratidin, fexofenadin, astemizol…Thuốc
thế hệ này khắc phục được bất lợi
của thế hệ 1, thuốc thế hệ 2 không xâm nhập hệ thần kinh trung
ương nên không gây buồn ngủ cũng như không gây tác dụng phụ liệt giao
cảm, khô miệng, táo bón, rối loạn điều tiết mắt. Thời gian bán hủy
dài, một số thuốc chỉ dùng một
lần/ngày như Cetirizin, loratidin.
Thế hệ thứ 3: gồm những thuốc là đồng dạng (isomer) hoặc
chất chuyển hóa của các thuốc thế hệ thứ 2 như levocetirizin là đồng phân tả truyền của cetirizin, desloratadin chuyển hóa từ
loratidin, tescasmizol
chuyển hóa từ astemizol. Do là chất chuyển hóa nên thuốc thế hệ thứ
3 được cho là không gây buồn ngủ như thuốc thế hệ thứ 2 và đặc biệt
không gây biến cố tim mạch như thuốc thuộc thế hệ trước nó, ngoài ra
thuốc còn có tác dụng chống viêm nên trị viêm mũi dị ứng khá tốt.
a. Cơ chế tác động: thuốc kháng histamin ở thụ thể H1 thường
được gọi tắt là thuốc kháng thụ thể H1 hoặc thuốc
kháng Histamin có tác dụng chống lại hiệu ứng gây dị ứng của
histamin bằng cách đối kháng tương
tranh thuận nghịch với chất sinh học này tại thụ thể H1.
Tức là, khi dùng thuốc kháng histamin, thuốc này sẽ tranh giành với
histamin và chiếm lấy thụ thể H1, histamin không có chỗ gắn
vào sẽ không gây hiệu ứng độc nữa.
- Khi histamin gắn vào thụ thể
H1 sẽ gây các biểu hiện dị ứng như sau:
+ Trên hệ hô hấp: sổ mũi, hen suyễn (do co thắt khí
quản).
+ Trên hệ tim mạch: Gây giãn mạch, hạ huyết áp, tăng co
thắt cơ tim.
+ Trên da: nổi mề đay, phát ban, ngứa, phù Quincke.
+ Trên mắt: làm viêm, đỏ kết mạc mắt.
+ Trên hệ tiêu hóa: tăng co thắt cơ trơn của ruột gây tiêu
chảy.
b. Chỉ định
- Dị ứng:
+ Viêm mũi, xoang dị ứng
+ Mày đay, phù Quincke
+ Viêm kết mạc
+ Dị ứng thức ăn
- Say tàu xe, rối loạn
tiền đình, nhức nữa đầu
- Giảm ho ở một số
trường hợp
- Chống nôn ở người có
thai
- Phụ trợ trong điều
trị sốc phản vệ.
c. Tác dụng phụ
- Buồn ngủ
- Táo bón, khô miệng,
khô đường hô hấp
- Buồn nôn, ói mửa
- Giảm tiết sữa hay gặp
ở các thuốc có tác dụng kháng serotonin
- Rối loạn điều tiết ở
mắt
- Bí tiểu: gặp ở người
bị u xơ tiền liệt tuyến
- Hạ huyết áp thế đứng
- Dị ứng.
Một số so sánh giữa kháng Histamin H1 thế hệ 1 và
kháng Histamin H1 thế hệ 2
2. Thuốc kháng Histamin thụ thể H2
a. Cơ chế tác đông: đối kháng cạnh tranh thuận nghịch với
histamin tại receptor H2.
- Khi histamin gắn vào thụ thể H2 , đặc biệt là ở tế bào
thành dạ dày gây tăng tiết acid dịch vị, dễ dẫn đến loét dạ dày, tá tràng.
b. Dược động học:
Cả 4 chất kháng H2 điều hấp thu nhanh ở ruột cimetidin,
ranitidin và famotidin bị chuyển hóa qua gan lần đầu nên sinh
khả dụng độ 50%, nizatidin ít bị chuyển hóa nên sinh khả dụng gần 100%.
Cả 4 chất bị loại trừ bởi chuyển hóa ở gan, lọc qua cầu thận và
bài tiết qua ống thận vì vậy cần giảm liều ở người suy thận vừa
và nặng t1/2 =1,1 – 4 giờ.
c. Chỉ định:
- Trị chứng trào ngược
dạ dày thực quản như ợ nóng khó tiêu.
- Bệnh loét dạ
dày (đối với bệnh nhân loét dạ dày không biến chứng dùng kháng H2
ngày 1 lần lúc đi ngủ sẽ làm lành vết loét tỉ lệ > 80-90% bệnh
nhân sau 6-8 tuần dùng thuốc).
- Loét dạ dày do
thuốc NSAIDs: dùng trong trường hợp đã ngừng sử dụng NSAIDs.
- Phòng ngừa chảy
máu dạ dày do stress.
d. Độc tính:
Tác dụng phụ chỉ có 1 – 2% trường hợp, thường gặp nhất
là tiêu chảy, táo bón, chóng mặt, đau đầu, mệt mỏi, phát ban,… Cimetidin
có nhiều tác dụng phụ nhất khoảng 5%, nizatidin ít nhất.
- Trên nội tiết:
Cimetidin kháng androgen và tăng tiết prolactin gây vú to ở đàn ông,
chảy sữa không do sinh đẻ ở đàn bà khi dùng liều cao và lâu dài.
- Giảm tiểu cầu có
hồi phục là loại loạn tạo máu thường gặp nhất xảy ra cả 4 thuốc
kháng H2.
- Trên gan: Ứ mật
có hồi phục do cimetidin, viêm gan do ranitidin.
- Thời kỳ mang
thai: Có tác dụng phụ với bào thai thú vật nên chỉ định cho phụ nữ
mang thai khi thật cần thiết.
- Thời kỳ cho con bú:
Cả 4 chất (cimetidin, ranitidine,
famotidin, nizatidin) được bài tiết qua sữa nên có thể gây độc hại
cho trẻ, cần thận trọng khi dùng trong thời gian cho con bú.
3. Những điều lưu ý trong sử dụng thuốc kháng Histamin.
- Thuốc kháng
Histamin chỉ trị triệu chứng dị ứng (ho, sổ mũi nước, nổi mề đay,
ngứa…) chứ không điều trị được nguyên nhân. Cần tìm ra và loại trừ tác
nhân gây dị ứng (thức ăn, thuốc, môi trường sống) thì mới trị được
căn bệnh.
- Tác dụng phụ gây
buồn ngủ của thuốc kháng histamin cổ điển có khi được dùng như chỉ
định chính thức trị mất ngủ. Nên lưu ý chỉ dùng thuốc trong trường
hợp này trong thời gian ngắn và lưu ý các bà mẹ không được dùng thuốc
cho trẻ ngủ kéo dài. Trẻ dùng thuốc gây buồn ngủ kéo dài sẽ mệt
mỏi, không phát triển tốt trí tuệ.
- Nhiều thuốc trị
cảm – sổ mũi, dị ứng hoặc trị ho, trong thành phần có chứa kháng
histamin cổ điển gây buồn ngủ (như clorpheniramin, promethazine..) cần lưu
ý người sử dụng về tác dụng gây buồn ngủ, tránh dùng thuốc nếu
phải làm việc đòi hỏi sự tập trung, tỉnh táo và tránh uống rượu
khi đang dùng thuốc. Hơn nữa, trong thuốc loại này còn chứa thêm thuốc
làm co mạch, chống sung huyết ở niêm mạc mũi (như ephedrine,
pseudoephedrin) cần tránh dùng ở người bị cao huyết áp, trẻ nhỏ.
- Cyproheptadin không
được dùng cho phụ nữ mang thai, phụ nữ cho con bú (thuốc ức chế sự
tiết sữa), trẻ con dưới 2 tuổi. Tránh dùng cho người cao tuổi
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Hữu Đức: Sách dược lâm sàng;
NXBYH (2008).
- Trần Thị Thu Hằng: Dược lực học; NXB
Phương Đông (2010).
- Tài liệu chuyên khoa I chuyên ngành Dược
lý
- DLS trường Đại học Y dược Cần Thơ.