c) Ức chế sinh tổng hợp protein: tham gia sinh tổng
hợp protein ngoài ribosom còn có các RNA thông tin và các RNA vận chuyển. Điểm
tác động là ribosom 70S (gồm 2 tiểu phần là 30S và 50S) của vi khuẩn: tại tiểu
phần 30S ví dụ như aminoglycosid (nơi RNA thông tin trượt qua), tetracyclin
(nơi RNA vận chuyển mang acid amin tới) hoặc tại tiểu phần 50S (nơi acid amin
liên kết tạo polypeptid) như erythromycin, cloramphenicol, clindamycin. Kết quả
là các phân tử protein không được hình thành hoặc được tổng hợp nhưng không có
hoạt tính sinh học làm ngừng trệ quá trình sinh trưởng và phát triển
d) Ức chế sinh tổng hợp acid nucleic: gồm 3 cấp độ:
- Ngăn cản sự sao chép
của DNA mẹ tạo DNA con, ví dụ do kháng sinh gắn vào enzym gyrase làm DNA không
mở được vòng xoắn, như nhóm quinolon.
- Ngăn cản sinh tổng
hợp RNA, ví dụ do gắn vào enzym RNA-polymerase như rifampicin.
- Ức chế sinh tổng hợp
các chất chuyển hóa cần thiết cho tế bào: quá trình sinh tổng hợp acid folic –
coenzym cần cho quá trình tổng hợp các purin & pyrimidin (và một số acid
amin) bị ngăn cản bởi sulfamid và trimethoprim.
Phân
loại kháng sinh theo cơ chế tác động
|
Ức chế tổng hợp vách tế bào
|
Penicillins
Cephalosporins
Vancomycin
Beta-lactamase Inhibitors
Carbapenems
Aztreonam
Polymycin
Bacitracin
|
Ức chế sinh tổng hợp protein
|
Ức chế
tiểu đơn vị 30S
Aminoglycosides (gentamicin)
Tetracyclines
Ức chế
tiểu đơn vị 50S
Macrolides
Chloramphenicol
Clindamycin
Linezolid
Streptogramins
|
Ức chế tổng hợp DNA
|
Fluoroquinolones
Metronidazole
|
Ức chế tổng hợp RNA
|
Rifampin
|
Ức chế tổng hợp mycolic acid
|
Isoniazid
|
Ức chế tổng hợp acid folic
|
Sulfonamides
Trimethoprim
|
Như vậy, mỗi kháng
sinh chỉ tác động lên một vị trí nhất định trong thành phần cấu tạo, ảnh hưởng
đến một khâu nhất định trong các phản ứng sinh học khác nhau của tế bào vi
khuẩn, dẫn đến ngừng trệ sinh trưởng và phát triển của tế bào. Nếu vi khuẩn không bị li giải hoặc không
bị nắm bắt (thực bào) và tiêu diệt, thì khi không còn tác động của kháng sinh
(ngừng thuốc) vi khuẩn sẽ có thể hồi phục/ sống trở lại (reversible). Chỉ cần 1
tế bào sống sót, với tốc độ sinh sản nhanh chóng, sau vài giờ số lượng tế bào
vi khuẩn đã không thể đếm được (ví dụ E. coli nếu 20 phút “đẻ 1 lứa” thì sau 5
giờ: từ 1 tế bào mẹ – ban đầu phát triển thành 215 tế bào và sau 10 giờ là 230
– hơn 1 tỷ); sẽ nguy hiểm hơn nữa nếu tế bào sống sót đó đề kháng kháng sinh.
2. Phối
hợp kháng sinh
Trong thực tế để nâng cao hiệu quả điều trị,
một số trường hợp cần thiết chúng ta phải phối hợp kháng sinh.
a)
Cơ sở lí thuyết cho
phối hợp kháng sinh là nhằm mục đích:
- Làm giảm khả
năng xuất hiện chủng đề kháng: với những đề kháng do đột biến thì phối hợp
kháng sinh sẽ làm giảm xác suất xuất hiện một đột biến kép. Ví dụ: xác suất đột
biến kháng streptomycin là 10-7 và đột biến kháng rifampicin là 10-9, thì xác
suất đột biến đề kháng cả 2 kháng sinh này là 10-16. Đây chính là lí do phải
phối hợp kháng sinh trong điều trị lao và phong; ngoài ra còn áp dụng cho một
số bệnh phải điều trị kéo dài như viêm màng trong tim và viêm tủy xương.
- Điều trị nhiễm khuẩn
do nhiều loại vi khuẩn gây ra, ví dụ do cả vi khuẩn hiếu khí và kị khí thì phối
hợp beta-lactam với metronidazol như trường hợp viêm phúc mạc, áp xe não, áp xe
phổi, một số nhiễm khuẩn phụ khoa… Như vậy mỗi kháng sinh diệt một loại vi khuẩn,
phối hợp kháng sinh sẽ diệt nhiều loại vi khuẩn hơn.
- Làm tăng khả năng
diệt khuẩn: ví dụ sulfamethoxazol & trimethoprim (trong Co-trimoxazol) tác
động vào 2 điểm khác nhau trong quá trình sinh tổng hợp acid folic hoặc cặp
phối hợp kinh điển beta-lactam (penicilin hoặc cephalosporin) với aminoglycosid
(gentamicin hoặc tobramycin hay amikacin).
b) Kết quả của phối hợp kháng sinh
Mỗi kháng sinh
đều có ít nhiều tác dụng không mong muốn; khi phối hợp thì những tác dụng phụ
này cũng sẽ cộng lại hoặc tăng lên. Không nên hy vọng phối hợp thì hạ được liều
lượng từng thuốc vì có thể dẫn đến nguy cơ xuất hiện vi khuẩn kháng kháng sinh.
Phối hợp kháng sinh có
thể dẫn đến tác dụng cộng (addition) hoặc hiệp đồng (synergism) hoặc đối kháng
(antagonism) hay không thay đổi (indifference) so với khi dùng đơn lẻ.
- Tác dụng đối kháng: 2 mà tác dụng không bằng 1 thuốc.
+ Phối hợp các kháng
sinh có cùng một đích tác động sẽ có tác dụng đối kháng vì chúng đẩy nhau ra
khỏi đích, ví dụ phối hợp erythromycin với clindamycin (hoặc lincomycin) và
cloramphenicol.
+ Dùng tetracyclin
cùng penicilin có thể dẫn đến tác dụng đối kháng, vì penicilin có tác dụng tốt
trên những tế bào đang nhân lên, trong khi tetracyclin lại ức chế sự phát triển
của những tế bào này.
- Tác dụng hiệp đồng (đơn giản hóa có thể nói: 1+1 lớn hơn
2):
+ Trimethoprim và
sulfamethoxazol ức chế 2 chặng khác nhau trên cùng một con đường tổng hợp
coenzym – acid folic cần thiết cho vi khuẩn phát triển nên 2 thuốc này có tác
dụng hiệp đồng và được phối hợp thành một sản phẩm (Co-trimoxazol).
+ Cặp phối hợp kinh
điển: một beta-lactam với một aminoglycosid cho kết quả hiệp đồng do
beta-lactam làm mất vách tạo điều kiện cho aminoglycosid dễ dàng xâm nhập vào
tế bào và phát huy tác dụng. Ví dụ phối hợp piperacilin với aminoglycosid điều
trị nhiễm khuẩn nặng do trực khuẩn mủ xanh; penicilin với gentamicin nhằm diệt
liên cầu.
+ Phối hợp penicilin
với một chất ức chế beta-lactamase giúp cho penicilin không bị phân hủy và phát
huy tác dụng; ví dụ phối hợp amoxicilin với acid clavulanic hoặc ampicilin với
sulbactam hay ticarcilin với acid clavulanic. Acid clavulanic hoặc sulbactam
đơn độc không có tác dụng của một kháng sinh, nhưng có ái lực mạnh với
beta-lactamase do plasmid của tụ cầu và nhiều trực khuẩn đường ruột sinh ra.
- Phối hợp 2 kháng
sinh cùng ức chế sinh tổng hợp vách vi khuẩn, nếu mỗi kháng sinh tác động vào
một protein gắn penicilin (PBP) – enzym trong quá trình tổng hợp vách thì sẽ có
tác dụng hiệp đồng; ví dụ phối hợp ampicilin (gắn PBP1) với mecilinam (gắn
PBP2) hay ampicilin với ticarcilin.
c) Chỉ
dẫn chung cho phối hợp kháng sinh
Phối hợp kháng sinh là
cần thiết cho một số ít trường hợp như điều trị lao, phong, viêm màng trong
tim, Brucellosis.
Ngoài ra, có thể phối
hợp kháng sinh cho những trường hợp: bệnh nặng mà không có chẩn đoán Vi sinh
hoặc không chờ được kết quả xét nghiệm; người suy giảm sức đề kháng; nhiễm
khuẩn do nhiều loại vi khuẩn khác nhau.
Khi phối hợp, cần dùng
đủ liều và nên lựa chọn những kháng sinh có tính chất dược động học gần nhau
hoặc có tác dụng hiệp đồng. Tác dụng kháng khuẩn in vivo (trong cơ thể) thay
đổi tùy theo số lượng và tuổi (non – đang sinh sản mạnh hay già) của vi khuẩn
gây bệnh cũng như các thông số dược động học của các kháng sinh được dùng phối
hợp.
Một số ví dụ: nhiễm
khuẩn nặng do tụ cầu có thể dùng các phối hợp khác nhau như oxacilin (hoặc
flucloxacilin) với acid fusidic hoặc cephalosporin thế hệ 1 với aminoglycosid
hoặc aminoglycosid với clindamycin. Khi nhiễm vi khuẩn kị khí thì dùng
metronidazol phối hợp để chữa viêm phúc mạc hay các nhiễm khuẩn ổ bụng; nếu
nghi nhiễm vi khuẩn kị khí ở vùng đầu và đsờng hô hấp thì dùng cùng clindamycin
(kháng sinh này có tác dụng tốt trên cả vi khuẩn Gram-dương và vi khuẩn kị
khí).
Quan sát in vivo cho
thấy phần lớn các phối hợp kháng sinh có kết quả không khác biệt (indifferent)
so với dùng một kháng sinh, trong khi đó các tác dụng không mong muốn do phối
hợp lại thường gặp hơn; vì vậy cần thận trọng và giám sát tốt người bệnh khi kê
đơn kháng sinh.
Nguồn: Cơ chế tác dụng
kháng sinh và phối hợp kháng sinh, trích trong Chương I. Đại cương về kháng
sinh và vi khuẩn học, thuộc tài liệu Hướng dẫn sử dụng kháng sinh 2015, Bộ Y tế.